Hiện nay tai nạn giao thông diễn biến khá phức tạp gây thiệt hại rất lớn về tài sản và tính mạng cho con người. Theo báo cáo của Ủy ban An toàn giao thông Quốc gia trong 6 tháng đầu năm 2019, nước ta xảy ra 8.385 vụ tai nạn giao thông trong đó làm chết 3.810 người, bị thương 6.358 người. So với 6 tháng đầu năm 2018, số vụ tai nạn giao thông đã giảm 641 vụ (giảm 7,1%), số người chết đã giảm 311 người (giảm 7,55%), số người bị thương đã giảm 679 người (giảm 9,65%). Nhằm khắc phục vấn đề này xảy ra cần có những biện pháp kịp thời nhằm hạn chế mức thấp nhất có thể thông qua truy cứu trách nhiệm bồi thường khi gây tai nại giao thông của những người vi phạm. Vậy quy định bồi thường thiệt hại khi gây tai nạn giao thông như thế nào?
Quy định về bồi thường thiệt hại khi gây tai nạn giao thông?
Quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp xảy ra tai nạn giao thông là một khía cạnh quan trọng trong lĩnh vực pháp luật. Khi một tai nạn giao thông xảy ra, trách nhiệm về bồi thường thiệt hại và trách nhiệm hình sự đối với người vi phạm sẽ dựa vào đánh giá yếu tố lỗi và xác định bên nào có lỗi trong việc gây ra tai nạn. Cụ thể:
Theo Điều 260 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), vi phạm tai nạn giao thông có thể bị áp dụng hình phạt như sau:
-
Với người vi phạm, hình phạt có thể là tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, hoặc phạt cải tạo không giam giữ trong khoảng thời gian không quá 3 năm, hoặc phạt tù từ 1 năm đến 5 năm, tùy thuộc vào các trường hợp cụ thể.
-
Người gây tai nạn giao thông có thể bị phạt tù từ 3 năm đến 10 năm, tùy thuộc vào các trường hợp cụ thể.
-
Người gây tai nạn giao thông có thể bị phạt tù từ 7 năm đến 15 năm, tùy thuộc vào các trường hợp cụ thể.
Ngoài việc xem xét trách nhiệm hình sự, vấn đề bồi thường thiệt hại trong trường hợp tai nạn giao thông sẽ tuân theo các nguyên tắc và quy định tại Bộ luật Dân sự năm 2015:
-
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại dựa trên Điều 584 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
-
Nguyên tắc bồi thường thiệt hại dựa trên Điều 585 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
-
Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân dựa trên Điều 586 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
-
Bồi thường thiệt hại do nhiều người cùng gây ra dựa trên Điều 587 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
-
Thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại dựa trên Điều 588 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
Tóm lại, việc đánh giá và áp dụng các quy định liên quan đến trách nhiệm hình sự và trách nhiệm dân sự trong trường hợp tai nạn giao thông rất quan trọng để đảm bảo sự công bằng và đúng luật trong việc xử lý các vụ vi phạm và bồi thường thiệt hại.
Tham khảo thêm: Sản phẩm của ngành giao thông vận tải là gì?
Bồi thường thiệt hại khi lái xe gây tai nạn giao thông?
Bạn Phúc Hà hỏi: “Chào Luật sư, em có câu hỏi sau Em là nhân viên lái xe gường nằm cho công ty A. Ngày 14/10/2022, em lái xe từ Bình Dương tới Đồng Nai không may gây tai nạn cho anh N.T.T. Luật sư có thể cho em hỏi ai là người phải bồi thường thiệt hại cho anh N.T.T. Mong được Luật sư giải đáp thắc mắc.”
Luật sư tư vấn :
Theo hướng dẫn áp dụng bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của Hội đồng thẩm phán Toà án Nhân dân tối cao, nguyên tắc cơ bản là người đang chiếm hữu và sử dụng hợp pháp nguồn nguy hiểm cao độ (trong trường hợp này, là chiếc xe) sẽ chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Trong trường hợp người đang chiếm giữ và sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ (chiếc xe) không phải là người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, mà trách nhiệm này thường được đặt cho chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ chỉ khi thiệt hại xảy ra do lỗi của người bị hại và có sự kiện bất khả kháng xảy ra.
Với trường hợp của bạn, bạn là một nhân viên lái xe cho công ty A và vào ngày 14/10/2022, trong quá trình lái xe từ Bình Dương tới Đồng Nai, bạn không may gây ra tai nạn cho anh N.T.T. Trong trường hợp này, quan hệ pháp lý giữa bạn và công ty A được quy định trong hợp đồng lao động, trong đó bạn là người lái xe thuê và được trả tiền công. Vì vậy, bạn không phải là người chiếm hữu và sử dụng chiếc xe, mà người chiếm hữu và sử dụng xe là công ty A. Do đó, trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với anh N.T.T thuộc về công ty A, và không phải của bạn cá nhân.
Thủ tục khởi kiện về việc yêu cầu bồi thường thiệt hại do tai nạn giao thông?
Bạn Hòa Thuận: “Chào Luật sư! Em có câu hỏi mong được Luật sư tư vấn. Anh trai em đang lưu thông quốc lộ, có một xe đi nhanh, vượt đèn đỏ nên tông phải anh trai em gây tỉ lệ thương tật là 60%. Sau đó có ý định bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm nhưng bị bắt lại. Giờ bên gây tai nạn cho anh trai không chịu bồi thường thiệt hại do vi phạm gây ra. Vậy thưa luật sư, làm cách nào giải quyết vấn đề trên để anh trai em được bồi thường thiệt hại?”
Luật sư tư vấn:
Theo quy định tại khoản 1 của Điều 155 trong Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 về việc khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại, điều quy định như sau:
Bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất, hoặc đã chết, có quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự về tội phạm quy định tại khoản 1 của các Điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155, 156 và 226 của Bộ luật hình sự năm 2015.
Mặt khác, theo quy định tại khoản 1 của Điều 260 trong Bộ Luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 về tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ.
Hơn nữa, người gây tai nạn lúc đó còn có ý định bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm. Trong trường hợp này, theo quy định tại điểm c của khoản 2 Điều 260, thì người phạm tội bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm là tình tiết gia tăng khung hình phạt. Do đó, người gây tai nạn cho anh trai của bạn sẽ bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm.
Do đó, Tòa án sẽ xem xét dựa trên hành vi và tình tiết phạm tội của tội phạm để xác định khung mức hình phạt và mức bồi thường cho anh trai của bạn. Cụ thể, bồi thường cho thiệt hại bao gồm chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khoẻ và chức năng bị mất hoặc giảm sút của anh trai bạn do thiệt hại; chi phí hợp lý và thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc anh trai bạn trong thời gian điều trị do tai nạn gây ra; cũng như khoản tiền đền bù tổn thất về tinh thần và sức khỏe của anh trai bạn bị xâm phạm.
Lái xe không có lỗi khi gây tai nạn giao thông có phải bồi thường không?
Bạn Phúc Long: ” Thưa luật sư, tôi lái xe cho công ty X, khi đang điều khiển xe chở xếp đi công tác trên quốc lộ 1A, xe mình có va quệt với Anh T đang chạy tốc độ cao ở chiều ngược lại. Tôi đã có thành ý bồi thường số tiền là 20 triệu đồng cho anh T. Để được làm giấy bãi nại để lấy bằng lái ra. Nhưng anh T làm khó không đồng ý. Khi công an xã gọi lên để làm việc anh T lấy lý do chưa khoẻ để không lên làm việc. Hiện anh T sức khỏe bình thường và không có vấn đề gì xảy ra. Tôi đã gọi công an giao thông để giải quyết và họ cũng xác nhận tôi không có lỗi. Và đã cho chủ xe lấy xe ra. Nhưng giấy phép lái xe của tôi đang bị giữ lại chưa được trả và phải chờ toà xét xử. Sự việc đã xảy ra hơn 3 tháng. Vậy cho tôi hỏi tôi có được quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại về thời gian tôi bị giữ giấy phép lái xe nên không thể đi làm cho đến khi lấy được giấy tờ ra đi làm lại không ạ?“
Luật sư tư vấn :
Căn cứ vào quy định của Bộ luật dân sự 2015 về việc bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, nguồn nguy hiểm cao độ này bao gồm phương tiện giao thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy công nghiệp đang hoạt động, vũ khí, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, thú dữ và các nguồn nguy hiểm cao độ khác do pháp luật quy định.
Trong trường hợp chủ sở hữu của xe ô tô đã giao chiếc xe ô tô đó cho một người khác (anh A), việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại sẽ phụ thuộc vào một số yếu tố quan trọng như sau:
Nếu anh A chỉ được chủ sở hữu thuê lái xe ô tô và được trả tiền công, điều này có nghĩa rằng anh A không phải là người chiếm hữu và sử dụng chiếc xe ô tô đó. Trong trường hợp này, chủ sở hữu vẫn giữ quyền chiếm hữu và sử dụng chiếc xe, do đó, trách nhiệm bồi thường thiệt hại thuộc về chủ sở hữu.
Nếu anh A được chủ sở hữu giao chiếc xe ô tô thông qua hợp đồng thuê tài sản, có nghĩa là chủ sở hữu không còn chiếm hữu và sử dụng chiếc xe ô tô đó mà anh A là người chiếm hữu và sử dụng hợp pháp. Trong trường hợp này, trách nhiệm bồi thường thiệt hại thuộc về anh A.
Nếu trong trường hợp này, anh A giao chiếc xe ô tô cho người thứ ba (anh B) thông qua hợp đồng cho thuê tài sản, thì anh B là người chiếm hữu và sử dụng hợp pháp chiếc xe ô tô đó. Do đó, trách nhiệm bồi thường thiệt hại sẽ thuộc về anh B.
Trong trường hợp của bạn, bạn là người được công ty X thuê để lái xe và không phải là chủ sở hữu của chiếc xe đó, do đó, bạn không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, ngay cả khi bạn có lỗi gây ra tai nạn. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp này thuộc về chủ sở hữu của chiếc xe đó.
Mặt khác, việc bạn bị tạm giữ giấy phép lái xe để chờ xét xử gây ảnh hưởng đến công việc của bạn, công ty X nơi bạn được thuê để lái xe phải chịu trách nhiệm bồi thường về vấn đề này. Trong trường hợp bạn không có lỗi trong việc gây ra tai nạn, công ty X có quyền khởi kiện và yêu cầu người lái xe mô tô gây tai nạn chịu trách nhiệm bồi thường.
Thực tiễn áp dụng pháp luật về bồi thường thiệt hại trong tai nạn giao thông?
Thực tế áp dụng pháp luật về bồi thường thiệt hại trong tai nạn giao thông đang đối mặt với nhiều thách thức và vướng mắc phức tạp. Nhiều chuyên gia đã nghiên cứu và nhận xét rằng việc xác định trách nhiệm bồi thường trong các tai nạn giao thông thường phức tạp tương tự như việc giải quyết các tranh chấp đất đai. Thực tế cho thấy, nhiều bản án của tòa cấp dưới thường bị cấp trên hủy hoặc sửa đổi do khác nhau trong việc áp dụng pháp luật vào tình huống cụ thể.
Theo quy định của pháp luật, các phương tiện như ôtô và xe máy được xem là nguồn nguy hiểm cao độ, và chủ sở hữu hoặc người được chủ sở hữu giao chiếm hữu và sử dụng phương tiện này phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, ngay cả khi họ không có lỗi. Tuy nhiên, thực tế giải quyết các tranh chấp liên quan đến bồi thường thiệt hại do ôtô và xe máy gây ra trong tai nạn giao thông thường gặp nhiều khó khăn và vướng mắc.
Pháp luật hiện chưa thể bao quát hết tất cả các tình huống cụ thể xuất hiện trong thực tế. Ví dụ, trường hợp chủ sở hữu hoặc người được chủ sở hữu giao chiếm hữu và sử dụng phương tiện không có lỗi trong việc quản lý và sử dụng, hoặc trường hợp người điều khiển phương tiện không gây lỗi trong tai nạn nhưng thiệt hại xảy ra không phải do lỗi cố ý của người bị thiệt hại đều đặt ra câu hỏi về cách giải quyết và trách nhiệm bồi thường. Để đảm bảo sự công bằng, nghiêm minh và hiệu quả của pháp luật về bồi thường thiệt hại trong tai nạn giao thông, cần thiết phải xem xét và quy định rõ ràng rằng khi các bên liên quan không gây lỗi thì không phải chịu trách nhiệm bồi thường.
Tìm hiểu thêm thông tin:
Lái xe chưa đủ tuổi phạt bao nhiêu? Luật Thành Công
Phương tiện giảm tốc độ lưu thông khi nào? Giải đáp