zalo-icon
phone-icon

Luật di sản văn hóa mới nhất

Di sản văn hóa là một tập hợp các sản phẩm vật chất và tinh thần có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học và được truyền đồi qua các thế hệ. Suốt hàng thế kỷ, di sản văn hóa đã được hiểu đa dạng, nhưng trong tất cả các định nghĩa, nó luôn đại diện cho những kho tàng quý báu của quốc gia, khu vực, và toàn thế giới, đóng một vai trò quan trọng trong đời sống văn hóa. Để bảo vệ và quản lý hiệu quả di sản văn hóa, đồng thời nâng cao trách nhiệm của cả nhà nước và cộng đồng trong việc bảo tồn, bảo vệ, và thúc đẩy giá trị của di sản văn hóa, việc ban hành Luật Di sản văn hóa là bước quan trọng và cần thiết.

Luật di sản văn hóa là gì?

Luật di sản văn hóa là một hệ thống quy định về việc bảo tồn, bảo vệ, và khai thác giá trị cốt lõi của di sản văn hóa, đồng thời tôn vinh quyền và nghĩa vụ của cá nhân và tổ chức đối với di sản văn hóa tại Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Luật Di sản văn hóa này, được ban hành lần đầu theo Nghị quyết số 10/2001/QH10 của Quốc hội năm 2001, đánh dấu bước đầu tiên của Việt Nam trong việc thiết lập một hệ thống pháp luật về di sản văn hóa.

Gần đây, Luật Di sản văn hóa năm 2001 đã trải qua một quá trình sửa đổi và bổ sung để điều chỉnh và cải thiện các điểm cụ thể, thông qua Luật sửa đổi và bổ sung số 32/2009/QH12. Điều này thể hiện cam kết của Việt Nam trong việc bảo vệ và phát triển di sản văn hóa quý báu của quốc gia trong bối cảnh thời đại hiện đại và phát triển.

Luật di sản văn hóa
Luật di sản văn hóa

Nhà nước trong việc quản lý di sản văn hóa

Di sản văn hóa của Việt Nam là một kho tàng quý báu của tất cả các dân tộc tại đây và đóng một phần quan trọng trong di sản văn hóa toàn cầu. Nó chịu ảnh hưởng lớn trong quá trình xây dựng và bảo vệ quốc gia.

Chúng ta cùng nhau đồng lòng bảo vệ và thúc đẩy giá trị của di sản văn hóa này, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về văn hóa và thẩm mỹ của nhân dân, đóng góp vào sự phát triển của văn hóa Việt Nam hiện đại, thúc đẩy giá trị bản sắc văn hóa và đóng góp vào di sản văn hóa toàn cầu.

Di sản văn hóa bao gồm cả những sản phẩm vật chất và tinh thần có giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học, được truyền đồi từ thế hệ này sang thế hệ khác. Tại Việt Nam, di sản văn hóa được chia thành hai loại: di sản văn hóa vật thể, bao gồm di tích lịch sử – văn hóa, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, và bảo vật quốc gia; di sản văn hóa phi vật thể, bao gồm những sản phẩm tinh thần gắn liền với cộng đồng hoặc cá nhân, không gian văn hóa và các yếu tố văn hóa khác. Đây là những giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học thể hiện bản sắc của cộng đồng, được truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các phương tiện khác.

Tham khảo thêm: Chế Độ Làm Việc Archives – Hãng Luật Quốc Tế Thành Công

Nhà nước trong việc quản lý di sản văn hóa

Bên cạnh đó, trước sự thay đổi, chuyển biến mạnh mẽ về văn hóa trong quá trình hội nhập quốc tế, đặc biệt là những giá trị văn hóa truyền thống. Đòi hỏi Nhà nước phải tăng cường sự quản lý trong lĩnh vực di sản văn hóa thông qua việc chỉ đạo, tổ chức, điều hành mang tính hệ thống theo quy định pháp luật nhằm tạo điều kiện bảo vệ, phát triển của DSVH. Quản lý Nhà nước về DSVH không phải là các hoạt động chỉ hướng đến bảo tồn sự tồn tại về vật chất của DSVH mà còn là gìn giữ, giáo dục các giá trị truyền thống, tinh thần, cội nguồn của dân tộc để cung cấp các tri thức, hiểu biết, kinh nghiệm sống, bài học lịch sử cho các thế hệ mai sau và cho cả nhân loại.

Tìm hiểu thêm: Chế độ trợ cấp khi hết hợp đồng tại cơ quan nhà nước

Nội dung chính của luật di sản văn hóa mới nhất

Luật Di sản văn hóa, qua việc sửa đổi và bổ sung năm 2009, tổ chức thành 7 chương và 74 điều quy định như sau:

Chương I: Quy định chung (từ Điều 1 đến Điều 13) bao gồm những quy định tổng quan về di sản văn hóa.

Chương II: Quyền và nghĩa vụ của tổ chức và cá nhân đối với di sản văn hóa (từ Điều 14 đến Điều 16) là nơi quy định về quyền và nghĩa vụ của tổ chức và cá nhân đối với di sản văn hóa.

Chương III: Bảo vệ và phát huy giá trị văn hóa phi vật thể (từ Điều 17 đến Điều 27) tập trung vào việc bảo vệ và phát huy giá trị văn hóa phi vật thể.

Chương IV: Bảo vệ và phát huy giá trị văn hóa vật thể (từ Điều 28 đến Điều 53) tập trung vào việc bảo vệ và phát huy giá trị văn hóa vật thể.

Chương V: Quản lí nhà nước về di sản văn hóa (từ Điều 54 đến Điều 68) đi sâu vào quản lý của nhà nước đối với di sản văn hóa.

Chương VI: Khen thưởng và xử lí vi phạm (từ Điều 69 đến Điều 72) là nơi quy định về khen thưởng và xử lí các vi phạm liên quan đến di sản văn hóa.

Chương VII: Điều khoản thi hành (từ Điều 73 đến Điều 74) là phần cuối cùng quy định về việc thi hành Luật.

Chương I – Những quy định chung về di sản văn hóa

Chương I của Luật Di sản văn hóa cung cấp định nghĩa cụ thể về di sản văn hóa, phân biệt di sản văn hóa phi vật thể và di sản văn hóa vật thể. Nó cũng xác định vai trò quan trọng của di sản văn hóa trong đời sống và phát triển của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Chương này cũng quy định quyền và nghĩa vụ của cá nhân và tổ chức đối với di sản văn hóa, tôn trọng và bảo vệ giá trị di sản văn hóa, đặt ra trách nhiệm quản lý của nhà nước và nhiệm vụ chung của toàn xã hội trong việc bảo tồn và phát triển di sản văn hóa.

Chương II

Chương II của Luật Di sản văn hóa đi sâu vào quyền và nghĩa vụ của cá nhân và tổ chức đối với di sản văn hóa. Mọi người và tổ chức đều được đảm bảo quyền sở hữu hợp pháp đối với di sản văn hóa, bao gồm quyền tham quan, nghiên cứu, và giữ gìn các giá trị di sản văn hóa. Ngoài ra, họ phải tôn trọng, bảo vệ, và phát huy giá trị của di sản văn hóa. Cá nhân và tổ chức cũng có nghĩa vụ trong việc bảo vệ và giữ gìn di sản văn hóa khỏi bất kỳ hành vi xâm hại nào đối với nó.

Những quy định trong luật di sản văn hóa

Chương III, chương IV

Tập trung vào bảo vệ và phát huy giá trị của di sản văn hóa phi vật thể và di sản văn hóa vật thể. Cả hai chương này khuyến khích các cá nhân và tổ chức thực hiện hoạt động như nghiên cứu, sưu tầm, bảo quản, truyền dạy và giới thiệu di sản văn hóa để bảo tồn và phát triển kho tàng di sản văn hóa của cộng đồng các dân tộc tại Việt Nam. Chương IV cũng đi sâu vào quy định về tiêu chí xếp loại, khu vực bảo tồn, và thủ tục xếp hạng của di sản văn hóa vật thể.

Chương V

Chương V quy định quản lý nhà nước về di sản văn hóa có nội dung quản lý:

Chỉ Chương này đưa ra những nhiệm vụ và trách nhiệm cụ thể của nhà nước, bao gồm chỉ đạo, xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, và chính sách để thúc đẩy việc bảo vệ, giữ gìn và phát huy giá trị di sản văn hóa. Ngoài ra, chương này cũng quy định về việc tổ chức các hoạt động như nghiên cứu, đào tạo đội ngũ cán bộ chuyên môn, và huy động nguồn lực để bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa. Hơn nữa, Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện cho các tổ chức và hội tham gia vào các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa.

Mặt khác, Nhà nước còn khuyến khích và tạo điều kiện cho các tổ chức, hội về văn học và nghệ thuật, khoa học và công nghệ tham gia các hoạt động chung tay bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa; khuyến khích những việc về các vấn đề như xã hội hóa hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa.

Có thể bạn quan tâm: Thủ Tục Chuyển Mục Đích Sử Dụng Đất Phải Được Phép Của Cơ Quan Nhà Nước

Chương VI

Chương VI quy định về khen thưởng và xử lý vi phạm, theo đó có quy định như sau:

Điều này bao gồm việc khen thưởng cá nhân và tổ chức có thành tích trong việc bảo vệ, giữ gìn và phát huy giá trị di sản văn hóa. Luật cũng xác định các hành vi vi phạm và quy định về xử lý như phạt hành chính, truy cứu trách nhiệm hình sự, và bồi thường theo quy định của pháp luật.

Chương VII

Quy định về các điều khoản thi hành và hiệu lực của Luật, có hiệu lực từ ngày 01/01/2002.

Luật Di sản văn hóa này đã được Quốc hội Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua trong kỳ họp lần thứ 9, ngày 29/6/2001.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

0933.157.679
1900 633 710